Mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em và đưa người di cư trái phép được xem là vấn nạn mang tính toàn cầu và đang có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại trên phạm vi toàn thế giới, bất chấp những nỗ lực quốc tế và quốc gia đã và đang được tiến hành. Do tính chất “xuyên quốc gia” của hoạt động mua bán người và đưa người di cư trái phép mà việc đấu tranh phòng, chống mua bán người, đưa người di cư trái phép hiện nay không còn nằm trong phạm vi một quốc gia hay giới hạn ở một khu vực nào mà đang được toàn thế giới tích cực phối hợp thực hiện
Suốt nhiều thập kỷ qua, chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể nhằm phòng ngừa và ngăn chặn nạn mua bán người và đưa người di cư trái phép. Trong khuôn khổ quốc gia, điều này thể hiện ở việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới một số đạo luật quan trọng, như Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng Điều 150 và Điều 151 BLHS; Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2012) và một số văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật phòng, chống mua bán người; Luật biên giới quốc gia năm 2003; Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014; Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 và một số văn bản hướng dẫn thi hành các luật này. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường đấu tranh phòng, chống mua bán người; đưa người di cư trái phép.
Ở phạm vi quốc tế, Việt Nam đã là thành viên của nhiều Công ước quốc tế liên quan đến phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là Nghị định thư (NĐT) không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em; NĐT về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (ACTIP). Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương và đa phương với các nước trong khu vực về phòng, chống mua bán người như với Thái Lan, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Australia… Đối với NĐT về chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước TOC, Việt Nam đang trong quá trình nghiên cứu gia nhập theo kế hoạch triển khai thực hiện Công ước TOC được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 605/QĐ-TTg ngày 18/4/2013.
Ảnh minh họa.
Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống mua bán người
Để đấu tranh phòng, chống mua bán người, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó phải kể đến BLHS năm 2015 và Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011. Đây là hai đạo luật quan trọng nhất trong lĩnh vực phòng, chống mua bán người.
Năm 2015, khi BLHS được sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện thì tội mua bán người và tội mua bán trẻ em của BLHS năm 1999 cũng được sửa đổi, bổ sung. Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này cũng như để đáp ứng tốt hợp yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung gần như toàn bộ các nội dung của Điều 119 về tội mua bán người và Điều 120 về tội mua bán trẻ em của BLHS năm 1999, đặc biệt là sửa đổi về cấu thành cơ bản của 02 tội danh này. Theo đó, BLHS năm 2015 đã quy định tội mua bán người tại Điều 150, tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151, đồng thời bổ sung thêm một tội danh mới có liên quan là tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154.
Theo quy định tại Điều 150 BLHS 2015 thì một người sẽ bị xử lý về tội mua bán người nếu thỏa mãn đủ 03 dấu hiệu về thủ đoạn, hành vi và mục đích. Thủ đoạn: sử dụng một trong các thủ đoạn: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác; Hành vi: thực hiện một trong 05 hành vi: chuyển giao người; tiếp nhận người; tuyển mộ người; vận chuyển người hoặc chứa chấp người; Mục đích: nhằm một trong các mục đích: giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; bóc lột tình dục; cưỡng bức lao động; lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; vì mục đích vô nhân đạo khác. Riêng đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người còn nhằm mục đích thực hiện hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người.
Với tội mua bán người dưới 16 tuổi, BLHS năm 2015 không quy định yếu tố thủ đoạn là yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội phạm. Đặc biệt, BLHS năm 2015 đã quy định loại trừ đối với trường hợp chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi có giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác nhưng vì mục đích nhân đạo.
Như vậy, có thể thấy, BLHS 2015 đã quy định nhằm xử lý sớm đối với người thực hiện hành vi mua bán người. Theo đó, thay vì xử lý hình sự khi người phạm tội thực hiện hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người và chuyển giao hoặc nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác như quy định của BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã xử lý hình sự đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em được thực hiện ngay từ giai đoạn người phạm tội có hành vi đi tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người.
Luật Phòng, chống mua bán người được ban hành năm 2011, trên cơ sở các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Luật Phòng, chống mua bán người đã quy định tương đối cụ thể về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người cũng như quy định cụ thể các giải pháp tiếp nhận, xác minh và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, cũng như trách nhiệm của các bộ, ngành trong đấu tranh phòng, chống mua bán người.
Một số bất cập, hạn chế
(i) Chưa hoàn toàn tương thích với chuẩn mực quốc tế
Phân tích tính tương thích giữa quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS với NĐT về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì thấy rằng, quy định tại cấu thành cơ bản của tội phạm mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi có phần hẹp hơn so với yêu cầu của NĐT khi điểm c khoản 1 Điều 150 và điểm c khoản 1 Điều 151 BLHS quy định hành vi tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người để nhằm mục đích chuyển giao hoặc tiếp nhận người mới được coi là hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi. Trong khi đó, theo yêu cầu của NĐT thì các quốc gia cần hình sự hóa và xử lý về tội buôn bán người đối với trường hợp thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột.
Mặc dù trường hợp người thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác trái pháp luật nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức sức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể thì tùy từng trường hợp, có thể vận dụng quy định tại Điều 157 BLHS về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật hoặc có thể vận dụng một số tội danh khác trong trường hợp phạm tội chưa đạt để xử lý, như tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội cưỡng bức lao động (Điều 297), tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154). Tuy nhiên, việc vận dụng các tội danh này để xử lý sẽ không phản ánh đúng bản chất, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Hơn nữa, sự khác biệt tương đối lớn trong chính sách xử lý đối với người thực hiện hành vi phạm tội giữa trường hợp phạm tội chưa đạt của một trong các tội danh trên với trường hợp phạm tội hoàn thành của tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi.
Quy định về độ tuổi nạn nhân bị mua bán là trẻ em tại Điều 151 BLHS năm 2015 là những người dưới 16 tuổi, trong khi đó, NĐT quy định độ tuổi nạn nhân bị mua bán là trẻ em phải là những người dưới 18 tuổi. Như vậy, với quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán trẻ em mà thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán người và để cấu thành tội này thì cần phải có đầy đủ ba yếu tố là: hành vi, thủ đoạn và mục đích. Trường hợp chỉ có hai yếu tố: hành vi và mục đích mà không có yếu tố thủ đoạn thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không cấu thành tội mua bán người. Trong khi đó, theo quy định của NĐT thì hành vi buôn bán người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chỉ cần hai yếu tố là hành vi và mục đích là đã cấu thành nên tội buôn bán trẻ em.
(ii) Chưa có sự phân hoá rõ ràng về trách nhiệm hình sự giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự
Mặc dù những sửa đổi, bổ sung tại Điều 150 và Điều 151 của BLHS năm 2015 về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đã khắc phục được nhiều bất cập, hạn chế trong việc phân biệt giữa hai tội danh này với một số tội danh khác của BLHS có cấu thành tương tự hoặc giữa hai tội danh này với một số hành vi vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác của BLHS năm 2015 nếu kết hợp phân tích các dấu hiệu cấu thành cơ bản và các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy rằng, ở cả hai điều luật này, một số tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự lại có sự tương đồng với cấu thành cơ bản của một số tội danh khác tại BLHS, cụ thể:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 150 và khoản 1 Điều 151 thì người thực hiện hành vi mua bán người vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó có các mục đích “để bóc lột tình dục”, “để cưỡng bức lao động” hoặc “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Trong số ba mục đích này thì mục đích “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại cấu thành cơ bản tiếp tục được quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu mục đích đó được thực hiện trên thực tế là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151. Tuy nhiên, với hai mục đích còn lại là “để bóc lột tình dục” và “để cưỡng bức lao động” thì cả hai điều luật này lại không tiếp tục quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “đã bóc lột tình dục” hoặc “đã cưỡng bức lao động” nếu việc bóc lột tình dục hoặc cưỡng bức lao động đã được thực hiện trên thực tế tương tự như cách quy định về tình tiết “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Điều này dẫn tới bất cập, đó là trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, nếu sau đó lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi theo khoản 3 Điều 150 hoặc khoản 3 Điều 151 với tình tiết định khung tăng nặng là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó hiếp dâm nạn nhân hoặc ép buộc nạn nhân phục vụ nhu cầu tình dục hoặc ép buộc họ phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả về tội hiếp dâm/hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 141 hoặc Điều 142 BLHS hoặc tội cưỡng bức lao động quy định tại Điều 297 BLHS. Như vậy, rõ ràng chính sách hình sự trong trường hợp này là chưa đảm bảo sự công bằng, minh bạch.
BLHS năm 2015 quy định mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người là một tội danh độc lập tại Điều 154, theo đó, người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS. Khi căn cứ vào tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi thì rất khó phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, bởi hành vi khách quan của các tội danh này có sự tương đồng, đó là hành vi chuyển giao người hoặc tiếp nhận người để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác và bộ phận cơ thể người đã được lấy đi. Trong trường hợp này, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi hoặc về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người đều phù hợp và đúng với quy định của pháp luật hình sự.
Nếu bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS sẽ vừa đảm bảo sự hợp lý và khoa học trong kỹ thuật lập pháp, và quan trọng hơn là đảm bảo có sự phân định rạch ròi giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội danh khác của BLHS như tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154; tội hiếp dâm tại Điều 141, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 142, tội cưỡng bức lao động tại Điều 297… Điều này sẽ đảm bảo chính sách hình sự công bằng, minh bạch giữa các trường hợp phạm tội như đã nêu ở trên.
(iii) Chưa hoàn toàn phù hợp và thống nhất với một số đạo luật khác
Sự phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao tính hiệu quả, khả thi của mỗi quy định trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, một số quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS vẫn chưa thực sự đảm bảo tính phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Cụ thể:
- Tình tiết "lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân" tại Điều 150 và Điều 151 là chưa thực sự phù hợp với quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006. Theo quy định của Luật này thì mô và bộ phận cơ thể người đều có thể được hiến, lấy, ghép từ cơ thể người này sang cơ thể người khác. Như vậy, có thể thấy mô không được coi là bộ phận cơ thể nhưng cũng có thể được lấy, ghép, hiến tặng cho người khác. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS thì “lấy bộ phận cơ thể” hoặc “đã lấy bộ phận cơ thể nạn nhân” là dấu hiệu trong cấu thành cơ bản hoặc tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, bộ phận cơ thể quy định tại hai điều luật này được hiểu là những bộ phận cơ thể người được quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 mà không bao gồm mô. Điều này dẫn tới thực tế là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi vì mục đích “lấy mô” thì mục đích này không được coi là đã thoả mãn yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của hai tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 151 BLHS thì một trong các hành vi cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi là “chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo”. Để thuận lợi cho việc áp dụng quy định này trong thực tiễn, Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/9/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự đã hướng dẫn trường hợp “vì mục đích nhân đạo” quy định tại Điều 151 BLHS là “người biết người khác thực sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã môi giới cho người này xin con nuôi của người có hoàn cảnh gia đình khó khăn không có điều kiện nuôi con, muốn cho con đẻ của mình đi làm con nuôi và nhận một khoản tiền từ việc cho con và việc môi giới. Đây là trường hợp vì mục đích nhân đạo nên người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi”.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì trong mọi trường hợp, việc cho, nhận con nuôi phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Nuôi con nuôi. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và Luật Hôn nhân và Gia đình thì quan hệ nuôi con nuôi giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, nghĩa là pháp luật chỉ thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi khi được thực hiện theo đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, một trong các hành vi bị cấm của Luật Nuôi con nuôi quy định tại Điều 13 đó là “lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật”. Như vậy, việc quy định loại trừ trường hợp “vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151 BLHS là chưa đảm bảo phù hợp và thống nhất trong hệ thống pháp luật, thậm chí quy định này còn có khả năng dẫn tới tình trạng bị lợi dụng để thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi.
(iv) Chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi
Tội mua bán người, tội mua bán trẻ em có đặc trưng nổi bật của tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, trong khu vực cũng như trên thế giới, nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với loại tội phạm này như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, như Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand… và đây cũng là một trong những yêu cầu của Công ước TOC đối với các quốc gia thành viên. Việc Việt Nam không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với loại tội phạm này sẽ dẫn tới khả năng chúng ta phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong quá trình hợp tác quốc tế đấu tranh với loại tội phạm này do xung đột về pháp luật với các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Luật Phòng, chống mua bán người được ban hành trong bối cảnh BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đang có hiệu lực pháp luật. Vì thế, đến nay khi BLHS năm 2015 được ban hành với nhiều sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện đối với hai tội danh mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi thì một số quy định của Luật Phòng, chống mua bán người cũng không còn phù hợp. Cụ thể:
Điều 3 Luật Phòng, chống mua bán người quy định các hành vi bị nghiêm cấm, theo đó, Luật đã dẫn chiếu tới Điều 119 và Điều 120 BLHS năm 1999. Hiện nay, các điều luật này của BLHS năm 1999 đã không còn hiệu lực thi hành.
Với những sửa đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi thì việc xác định nạn nhân bị mua bán cũng khác hơn rất nhiều so với quy định trước đây của BLHS năm 1999. Theo đó, phạm vi nạn nhân của tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định của BLHS năm 2015 được mở rộng hợp rất nhiều, bao gồm cả những người bị tuyển mộ hoặc đang bị vận chuyển, đang bị chứa chấp mà không chỉ là những người bị chuyển giao hoặc bị tiếp nhận như trước đây. Vì thế, các quy định của Luật Phòng, chống mua bán người về việc xác minh, xác định nạn nhân cũng như những chính sách bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân cũng cần có sự sửa đổi, bổ sung phù hợp với quy định hiện nay của BLHS năm 2015.
Cần nghiên cứu và hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống mua bán người
Để hạn chế những tác động của tham nhũng, tiêu cực, đồng thời, tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số đang trở thành xu thế toàn cầu với nhiều thách thức như hiện nay thì việc sửa đổi, bổ sung chính sách pháp luật để đảm bảo những quy định pháp luật được minh bạch, rõ ràng, phù hợp và đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế là hết sức quan trọng và cần thiết.
Việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS năm 2015 về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em cần tập trung vào một số vấn đề sau: Mở rộng phạm vi xử lý hình sự về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS. Nâng độ tuổi nạn nhân bị mua bán tại Điều 151 là người dưới 18 tuổi thay vì quy định là người dưới 16 tuổi và sửa tên tội danh cho phù hợp. Bỏ quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151 BLHS. Bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi là pháp nhân thương mại.
Với những bất cập, hạn chế của Luật Phòng, chống mua bán người trong bối cảnh BLHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi như trên thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống mua bán người tại thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết và có thể tập trung vào một số nội dung sau: Sửa đổi quy định về các hành vị bị nghiêm cấm, đảm bảo phù hợp với quy định của BLHS năm 2015. Sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí xác định nạn nhân bị mua bán phù hợp với quy định của BLHS năm 2015. Bổ sung quy định về chính sách hỗ trợ người đang trong giai đoạn xác định là nạn nhân bị mua bán. Sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hôi hiện nay.